VỢ ĐANG CÓ THAI, SINH CON HOẶC ĐANG NUÔI CON DƯỚI 12 THÁNG TUỔI CÓ ĐƯỢC LY HÔN ?

Thứ 6, 26/04/2024

Administrator

54

Thứ 6, 26/04/2024

Administrator

54

Ly hôn là quyết định cuối cùng mà nhiều cặp vợ chồng lựa chọn để giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng trong đời sống hôn nhân. Vợ hoặc chồng đều có thể khởi kiện ly hôn. Đơn phương ly hôn khi đang mang thai được pháp luật quy định như thế nào? Cùng Luật Việt Đức tìm hiểu qua bài viết sau. 

1. VÍ DỤ VỀ TÌNH TRẠNG HÔN NHÂN 

Vợ chồng kết hôn được 02 tháng nhưng vợ có bầu được 05 tháng. Hiện tại, người vợ không có công việc làm chỉ ở nhà ba mẹ ruột nuôi. Trong thời gian quen nhau và đi đến hôn nhân người vợ đã bị chồng đánh rất nhiều kể cả lúc đang mang thai. Bây giờ, người vợ không thể sống với chồng được nữa, nên muốn thực hiện thủ tục ly hôn. 

Mục đích của hôn nhân không đạt được khi không có tình nghĩa vợ chồng, không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.

Theo như ví dụ trình bày, trong thời gian quen nhau, sau khi kết hôn, ngay cả khi mang thai chồng thường xuyên đánh đập vợ. Như vậy, mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững đã không đạt. Chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ thường xuyên đánh đập dẫn đến mối quan hệ hôn nhân rơi vào tình trạng trầm trọng, giữa hai người đã tồn tại những mâu thuẫn gay gắt, tình cảm đã lạnh nhạt, không còn yêu thương, quý trọng nhau nữa. 

2. VỢ ĐANG MANG THAI CÓ QUYỀN LY HÔN KHÔNG

Trong trường hợp người chồng không đồng ý thì người vợ có thể căn cứ theo Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên.

Theo Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình đình 2014 quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:

- “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. 

- “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”.

- “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.

Như vậy, người chồng không được quyền yêu cầu ly hôn khi vợ đang mang thai. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, người vợ vẫn có quyền xin ly hôn trong khi đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng.

Cho nên nếu việc tiếp tục chung sống với chồng mà chồng có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn hoặc em bé trong bụng thì bạn có quyền nộp đơn xin ly hôn, tòa án sẽ thụ lý và giải quyết.

Để có thể được ly hôn theo yêu cầu 1 bên thì bạn phải chứng minh được người chồng đã có những hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghĩa vụ vợ chồng như không chăm sóc, bỏ bê gia đình và con cái hoặc là ngoại tình mà làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc gia đình. Thì lúc đấy, người vợ có thể dùng những căn cứ đó để yêu cầu tòa ly hôn theo yêu cầu của một bên.

3. CHỒNG KHÔNG ĐƯỢC LY HÔN ĐƠN PHƯƠNG KHI VỢ MANG THAI

Như đã đề cập ở phần trên, trong trường hợp người vợ đang thực hiện thiên chức làm mẹ, đang mang thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng không được phép yêu cầu ly hôn.

Điều này đồng nghĩa, việc ly hôn trong thời điểm này chỉ có thể thực hiện khi người vợ sẽ thực hiện yêu cầu ly hôn đối với người chồng hoặc cả hai vợ chồng đều thuận tình đồng ý ly hôn.

Trong trường hợp này, người chồng bị ràng buộc bởi quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau: “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”. 

Trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt người vợ có thai với ai. Vẫn được xác định là con chung của hai vợ chồng theo Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

  • “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”.

  • “Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân”.

  • “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”.

Có thể hiểu, đây là một quy định thể hiện tính nhân văn sâu sắc và tiến bộ trong tư tưởng trong pháp luật về hôn nhân gia đình. Quy định như vậy là muốn đảm bảo quyền lợi và giúp ích cho người phụ nữ khi họ mới sinh con, chưa đủ khả năng để tự mình chăm sóc con cái nên phải cần sự trợ giúp của người chồng để hỗ trợ nuôi con.

Quyền lợi của trẻ em và phụ nữ (những người yếu thế) được pháp luật tôn trọng, đề cao và bảo vệ chặt chẽ. Do đó, chồng không được đơn phương ly hôn với người vợ trong trường hợp này.

Quy định này chỉ hạn chế quyền ly hôn của người chồng, có nghĩa là nếu người vợ làm đơn xin ly hôn thì tòa án vẫn thụ lý, giải quyết như những trường hợp bình thường.

4. TRƯỜNG HỢP VỢ CHỒNG THUẬN TÌNH LY HÔN

Căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình, thuận tình ly hôn là việc hai vợ chồng đã có thỏa thuận với nhau về việc ly hôn, trong đó đã thống nhất về việc: Tự nguyện ly hôn, phân chia tài sản chung vợ chồng, việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con…

Đồng thời, theo quy định ở trên, Luật chỉ cấm chồng đưa ra yêu cầu ly hôn mà không cấm trường hợp thuận tình ly hôn. Do đó, mặc dù chồng không được ly hôn khi vợ có thai với người khác nhưng nếu hai vợ chồng thỏa thuận ly hôn thì vẫn gửi yêu cầu ly hôn thuận tình đến Tòa án để giải quyết.

5.  QUY ĐỊNH QUYỀN NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. Như vậy, về nguyên tắc, khi con bạn sinh ra bạn có quyền trực tiếp nuôi con nếu bạn và chồng bạn không có thỏa thuận khác.

Căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật Hôn Nhân và gia đình 2014 quy định về quyền nuôi con khi ly hôn như sau: Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Trường hợp vợ chồng ly hôn khi người vợ đang có thai thì họ của đứa trẻ khi được sinh ra có thể mang họ cha hoặc mẹ tùy theo sự thỏa thuận của cha, mẹ. 

Theo đó, bạn có quyền trực tiếp nuôi con và chồng bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định tại Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: 

Điều 110. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con

“Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con."

6. THỦ TỤC LY HÔN ĐƠN PHƯƠNG

+ Đơn xin ly hôn;

+ Bản chính giấy đăng ký kết hôn;

+ Bản sao hộ khẩu;

+ Bản sao chứng minh nhân dân của vợ và chồng ;

+ Các giấy tờ chứng minh về tài sản ;

* Đối với giấy tờ, tài liệu là bản sao thì cần phải công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền.

Ly hôn khi người vợ đang mang thai chỉ hạn chế với người chồng còn vợ thì vẫn đơn phương ly hôn được. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét lại vì ly hôn lúc người vợ đang mang thai là một quyết định vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến người vợ và con chung của hai vợ chồng. Do đó, hai vợ chồng nên cùng nhau ngồi lại để giải quyết các vấn đề đang xảy ra ở hiện tại trước khi dẫn đến quyết định ly hôn.

Nếu quý khách đang gặp những vấn đề vướng mắc trong hôn nhân và cần tư vấn, hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo thông tin sau để được tư vấn chi tiết về dịch vụ.

----------------------------------------

LUẬT VIỆT ĐỨC
VPGD số 1: Số 16, ngõ 25, phố Bùi Huy Bích, phường Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội.
Hotline: 
0969 223 114
Email: luatvietduc114@gmail.com
Website: luatsutuvanlyhon.com

Đặt lịch tư vấn
Nếu bạn đang gặp rắc rối, bế tắc trong hôn nhân. Bạn cần một chuyên gia tư vấn "3 trong 1": Thấu hiểu và bảo mật - Lựa chọn giải pháp phù hợp - Tránh mọi rủi ro pháp lý. Hãy liên hệ với chúng tôi ngay để được tháo gỡ trước khi mọi việc đã quá muộn.